Lợn rừng là loài vật nuôi có giá trị kinh tế cao nhờ chất lượng thịt thơm ngon, ít mỡ và được thị trường ưa chuộng. Với đặc tính dễ nuôi, khả năng kháng bệnh tốt, lợn rừng đang được nhiều hộ chăn nuôi lựa chọn để phát triển kinh tế.
- Giống và đặc điểm giống
1.1. Vóc dáng:
Lợn rừng cân đối, nhanh nhẹn, di chuyển linh hoạt, hơi gầy, dài đòn, lưng thẳng, bụng thon, chân dài, nhỏ và móng nhọn, cổ dài, đầu nhỏ, mõm dài và nhọn, tai nhỏ vểnh và thính, mũi rất thính và khỏe, da lông màu hung nâu, hung đen hay xám đen, một gốc chân lông có 3 ngọn, lông dọc theo sống lưng và cổ dày, dài và cứng hơn. .. Vai thường cao hơn mông, đuôi nhỏ, ngắn, chỉ dài đến kheo. Con đực có răng nanh phát triển, con cái có 2 dãy vú, mỗi dãy 5 núm vú phát triển và nổi rõ.
1.2. Sinh trưởng phát triển và sinh sản:
Lợn rừng thường đẻ mỗi năm 2 lứa, mỗi lứa 5-10 con, lứa đầu (con so) 3-5 con, lứa sau (con rạ) đẻ nhiều hơn (7-10 con). Lợn con có bộ lông sọc dưa .Trọng lượng bình quân lúc trưởng thành, con đực nặng 80- 100 kg, con cái nặng 50-70 kg…
Lợn rừng 7-8 tháng tuổi, thể trọng 30-40 kg (với lợn cái có thể cho phối giống, lợn đực giống có thể cho phối giống trễ hơn 1-2 tháng).
- Chọn giống và phối giống
2.1. Chọn giống:
Chọn những con đầu thanh, ngực sâu, mình nở, hoạt bát, lưng thẳng, bụng gọn, bốn chân chắc khỏe, bộ phận sinh dục phát triển và hoạt động tốt.
- Phối giống và thời điểm phối giống thích hợp:
Chu kỳ động dục của lợn rừng là 21 ngày, thời gian động dục kéo dài 3-5 ngày. Thời điểm phối giống thích hợp vào cuối ngày thứ 2 hoặc đầu ngày thứ 3.
Bỏ qua 1-2 lần động dục đầu tiên, vì cơ thể chưa hoàn thiện, trứng rụng ít, phối giống, đậu thai hiệu quả thấp. Khi lợn cái có dấu hiệu động dục ta cho lợn đực tiếp xúc với lợn cái. Lợn đực sẽ phối giống liên tục, bất kể ngày đêm đến khi nào lợn cái không chịu nữa mới thôi. Có thể cho phối kép 2 lần vào lúc sáng sớm và chiều mát (hoặc ngược lại). Sau 21 ngày, lợn cái không động dục trở lại, có thể lợn cái đã có bầu.
III. Chuồng trại:
Chuồng trại rất đơn giản, tuy nhiên, phải nắm vững một số đặc điểm và tập tính của lợn rừng để bố trí chuồng trại.
Ta có thể nuôi lợn rừng theo kiểu thả rông trong những khu vực có cây xanh, có rào che chắn xung quanh. Điều quan trọng là hệ thống hàng rào phải hết sức chắc chắn, mỗi vườn nuôi rộng 50-100 m2 trong đó có chuồng nuôi rộng 20-30 m2 nuôi khoảng 4-5 lợn cái trưởng thành, chúng sẽ sống và sinh sản trực tiếp trong khu vực này. Lợn đực giống nuôi riêng, mỗi con một vườn, mỗi vườn nuôi rộng 40-50 m2 trong đó có chuồng nuôi rộng 5-10 m2.
- Thức ăn và khẩu phần thức ăn
Bao gồm, thức ăn thô xanh (các loại cỏ, cây, mầm cây, rễ cây ), thức ăn tinh (hạt ngũ cốc, củ quả), thức ăn bổ sung muối khoáng như tro bếp, đất sét, hỗn hợp đá liếm… Thực tế cho thấy, lợn rừng thường tìm đến nương rẫy mới đốt kiếm tro, đất sét để ăn…
Thức ăn của lợn rừng chủ yếu là thực vật. Không nên lạm dụng thức ăn giàu dinh dưỡng để nuôi lợn rừng vì nó sẽ làm cho phẩm chất thịt của lợn rừng bị biến đổi và nhiều khi làm cho lợn bị bệnh rối loạn tiêu hóa gây tiêu
- Chăm sóc nuôi dưỡng
5.1. Lợn đực giống:
Có ý nghĩa quan trọng trong việc gây đàn. Quản lý và chăm sóc tốt 1 lợn đực có thể phối 5-10 lợn cái. Lợn đực giống phải nuôi riêng và có chế độ bồi dưỡng, nhất là thức ăn tinh giàu đạm, khoáng, sinh tố. Ngày phối giống nên bổ sung thêm thức ăn tinh giàu dinh dưỡng, 1 -2 quả trứng gà, muối khoáng, sinh tố cho ăn tự do . . .
5.2. Lợn cái giống:
Lợn rừng mắn đẻ và khéo nuôi con (nuôi con rất giỏi). Trong tự nhiên, khi đẻ lợn mẹ tự chăm sóc, nuôi dưỡng con cái và tự tách bày khi con lớn. . .
Lợn sơ sinh có thể đạt 300- 500 gr/con, 1 tháng tuổi 3-5 kg, 2 tháng tuổi 8-10 kg, 6 tháng tuổi 25-30 kg, 12 tháng tuổi có thể đạt 60-70% trọng lượng trưởng thành.
- Công tác Thú y
Lợn rừng là động vật hoang dã mới được thuần hóa, nên sức đề kháng cao, ít dịch bệnh. Tuy nhiên, lợn rừng cũng thường bị một số bệnh như Dịch tả, tiêu chảy, tụ huyết trùng, lở mồm long móng, bệnh sán lá, bệnh ghẻ lở và một số bệnh thông thường khác…
– Bệnh về đường tiêu hoá (như sình bụng, đầy hơi, đau bụng, tiêu chảy, ngộ độc thức ăn…): Khi lợn rừng mắc một số bệnh về đường tiêu hoá có thể dùng các loại thuốc trị đau bụng, sình bụng, đầy hơi, khó tiêu cho uống hay chích hoặc có thể dùng 5-10 kg rau dừa dại cho lợn ăn hoặc có thể bổ sung thức ăn, nước uống đắng, chát như ổi xanh, cà rốt, rễ cau, rễ dừa… cũng có thể khỏi. Để phòng bệnh, thức ăn phải đảm bảo vệ sinh, đầy đủ dinh dưỡng và không nên sử dụng các loại thức ăn hôi thối, ẩm mốc. . .
– Sưng phổi: Lợn bị sưng phổi thường sốt cao, biếng ăn, bỏ ăn. Điều trị bằng kháng sinh tổng hợp.
– Táo bón: Có thể cho uống thuốc nhuận tràng hoặc cho ăn thức ăn nhuận tràng…
– Ký sinh trùng đường ruột: Lợn bị nhiễm ký sinh trùng đường ruột thường còi cọc, chậm lớn, trong phân có ấu trùng giun, sán. Cần thiết phải xổ sán lãi cho lợn.
– Ký sinh trùng ngoài da: Ve (bét), mò, ghẻ, ruồi muỗi… bám trên da hút máu và truyền bệnh ít khi xảy ra. Do đặc tính hoang dã nên lợn rừng không sợ muỗi hay côn trùng khác tấn công. Tuy nhiên, khi lợn bị bệnh ký sinh trùng ngoài da, ta có thể dùng thuốc sát trùng bôi hay xịt đều có tác dụng tốt. Để phòng bệnh ký sinh trùng ngoài da, ta nên định kỳ vệ sinh sát trùng chuồng trại và môi trường xung quanh sạch sẽ.
Phạm Sơn